Hướng dẫn về tranzitor
Sử dụng BJT vào mục đích khuếch đại:
Transistor
Hình
vẽ cho thấy: Dòng điện bên chân B rất nhỏ, nó có thể điều khiển
dòng điện rất lớn bên chân C, đó chính là tính khuếch đại của các
transistor. Chúng ta đưa một tín hiệu có công suất nhỏ vào chân B,
chúng ta có thể nhận được một tín hiệu lớn hơn, mạnh hơn trên chân C.
Do đó, chân B gọi là ngả vào và chân C gọi là ngả ra. Khi dùng một
transistor làm tầng khuếch đại, chúng ta thường thiết kế theo trình
tự sau:
Thứ
nhất:
Phải lấy đúng phân cực DC. Với transistor NPN, mức volt trên chân B cao
hơn E khoảng một diode, mức volt chân C phải cao hơn chân B.
Thứ
hai:
Tìm cách đưa tín hiệu vào mạch khuếch đại và tìm cách thu lại tín
hiệu ở ngả ra. Có các kiểu vào ra như sau:
*
Cho tín hiệu vào chân B và lấy tín hiệu ra trên chân C
*
Cho tín hiệu vào chân B và lấy tín hiệu ra trên chân E
*
Cho tín hiệu vào chân E và lấy tín hiệu ra trên chân C.
Vậy
chân B luôn là ngả vào và chân C luôn là ngả ra, chỉ có chân E có thể
lúc làm ngả vào và lúc làm ngả ra. Thứ ba: Dùng kỹ
thuật hồi tiếp để hoàn thiện mạch khuếch đại
Ghép các transistor lại để đạt hiệu quả hơn
Chúng ta biết, trong chế tạo, một transistor cho độ
lợi dòng lớn thì công suất không lớn, một transistor công suất lớn
thì hệ số khuếch đại dòng nhỏ. Vậy để có các transistor vừa có
công suất lớn, vừa có độ lợi dòng lớn, người ta dùng cách ghép
phức hợp còn gọi là cách ghép Darlington.
Transistor
Transistor
phức hợp sẽ cho hệ số khuếch đai dòng rất lớn và có công suất lớn.
Một vài cách dùng transistor
Transistor
Hình
vẽ sau cho thấy transistor BJT có thể được dùng như một một biến trở
chỉnh theo mức áp. Lúc này chân C không phân cực, chân CE xem như một
biến trở, tín hiệu có thể qua lại theo hai chiều, nội trở CE sẽ thay
đổi theo mức áp cao thấp trên chân B. Người ta thường dùng transistor
theo kiểu này ở mạch ALC (Automatic Level Control), nó có tác dụng ổn
định biên độ tín hiệu lúc máy ở mode ghi băng.
Người
ta thường dùng transistor theo kiểu, tín hiệu tác động trên chân B và
tải đặt trên chân C.
Transistor
Mạch
trên cho thấy, người ta dùng điện áp điều khiển đưa vào chân B và
đóng mở dòng chảy ra trên chân C, dùng dòng này để kích thích một
relay đặt trên chân C.
*
Khi chân B có mức áp cao hơn 0.6V, khoảng 1V, thì transistor sẽ vào
trạng thái bão hòa, dòng chảy ra trên chân C sẽ cấp cho cuộn dây trong
relay, relay hút lá kim xuống và thay đổi vị trí của các tiếp điểm
lá kim.
*
Khi chân B mất áp, hay 0V thì transistor sẽ vào trạng thái ngưng dẫn,
lúc này sẽ không có dòng chảy ra trên chân C, cuộn dây trong relay mất
dòng, tiếp điểm lá kim bị nhã ra, nó lại thay đổi vị trí của tiếp
điểm lá kim.
Do
cuộn dây vốn là một kho chứa điện năng theo dạng dòng, nên khi có
dòng điện chảy qua cuộn dây sẽ được nạp điện năng, và khi cuộn dây
bị cắt dòng, lượng điện năng chứa trong cuộn dây sẽ hoàn trả lại cho
mạch, nó hoàn trả điện năng dưới dạng phát ra điện áp ứng có biên
rất cao, mức áp này có thể làm hư các linh kiện bán dẫn trong mạch,
do đó ngang relay, người ta phải gắn một diode bảo vệ.
Transistor
Có
thể dùng quang trở gắn trên chân B để đóng mở Led đặt trên chân C.
*
Trong hình bên trái, khi quang trở bị chiếu sáng, nó cho nội trở nhỏ,
làm giảm mức áp trên chân B, nên transistor vào trạng thái tắt và
không có dòng chảy ra trên chân C, nên Led tắt. Và khi quang trở bị che
sáng Led sẽ sáng.
*
Trong hình bên phải thì ngược lại. Khi quang trở được chiếu sáng, nó
sẽ giảm nội trở làm tăng mức áp trên chân B, transistor dẫn điện, Led
sáng và khi bị che sáng thì Led tắt.Trong mạch, chiết áp 10K dùng
chỉnh độ nhậy của mạch.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét